Thứ Hai, 17 tháng 9, 2018

Dùng “Sóng Elliott và số Fibonacci” để dự đoán xu hướng giá chứng khoán Lý Thuyết sóng Elliott


Nguyên tắc sóng Elliott một trong những công cụ phân tích kỹ thuật một số nhà kinh doanh chứng khoán dùng để phân tích những xu hướng giá trong các thị trường tài chánh. “Cha đẻ” của nguyên tắc này Ông Ralph Nelson Elliott (1871­ 1948). Nghề chính của ông là kế tóan và ông đã nghiên cứu và phát triển ra nguyên tắc này vào những năm 30 của thế kỷ trước.

Theo ông Elliott, sự thay đổi của giá cả sẽ tạo ra những cơn sóng, như hình vẽ. Trong đó một cơn sóng bản sẽ 5 cơn sóng “chủ” 3 cơn sóng điều chỉnh. Trong 5 con sóng chủ thì sóng số 1, 3 số 5 gọi sóng “chủ động”, sóng 2, 4 gọi sóng “chủ điều chỉnh”. 2 con sóng điểu chỉnh được gọi sóng A,B, C.

Trong mỗi một con sóng như vậy lại những con sóng nhỏ cũng tuân theo quy luật của lý thuyết Elliot. Một đợt sóng chủ hòan chỉnh sẽ có 89 sóng và đợt sóng điều chỉnh hòan chỉnh sẽ có 55 sóng.

Tùy theo thời gian độ lớn của sóng sẽ được phân theo thứ tự sau
  • Grant Supercycle: sóng kéo dài nhiều thập kỹ, đôi khi cả thế kỹ
  • Supercycle: kéo dài từ vài năm đến vài thập kỹ
  • Cycle: kéo dài từ 1 đến vài năm
  • Primary: kéo dài từ vài tháng đến vài năm
  • Intermediate: kéo dài từ vài từ tuần đến vài tháng
  • Minor: kéo dài trong vài tuần
  • Minute: Kéo dài trong vài ngày
  • Minuette: Kéo dài trong vài giờ.
  • Subminutte: Kéo dài trong vài phút.

Dãy số Fibonacci

Dãy số do nhà tóan học người Ý Leonardo Fibonacci (1175­1250) phát minh ra. Bắt đầu số 0 số 1, sau đó những số kế tiếp được tạo ra bằng cách công 2 số đứng trước. dụ 1 = 1+0, 5 = 3+2, 34=21+13. Điều kỳ diệu hơn cứ lấy số lớn chia cho số nhỏ hơn một bậc , ví dụ 89/55 ta sẽ được 1.618; lấy số nhỏ chia cho số lớn hơn 1 bậc, dụ 21/34 ta sẻ được 0.6180, lấy số nhỏ chia cho số lớn hơn 2 bậc, ví dụ 13/34 ta sẽ được 0.382.

Tất cả các con số thuộc dãy số Fibonacci 0, 1, 1, 2, 3, 5, 8 …và các con số 0.618 và 0.382, trong đó đặc biệt nhất con số được mệnh danh “tỷ lệ vàng” 1.618 ­ xuất hiện rất nhiều trong tự nhiên, trong thề con người, trong trụ, trong kiến trúc, xây dựng.

Quan trọng hơn đối với chúng ta những nhà đầu tư, kinh doanh chứng khoán, những con số “đầy ma lực trên” bên trên xuất hiên ngay trong thị truờng tài chánh, nhất là những biến động về giá cả.

Ralph Nelson Elliott khẳng định rằng ông nghiên cứu và phát mình ra lý thuyết sóng truớc khi biết Fibonacci nhưng những con số trùng hợp đến kỳ lại: 5 sóng chủ, 3 sóng điều chỉnh, 89 sóng chủ, 55 sóng điều chỉnh cũng như tỷ lệ giá của các con sóng luôn ở chung quanh các tỷ lệ vàng 0.618, 1.618, 0.328. Do đó có một giá thuyết khác cho rằng Ông Elliott đã ứng dụng những con số Fibonacci vào lý thuyết của mình.
Dãy số Fibonacci Số lớn/chia cho số nhỏ hơn 1 bậc Số nhỏ/chia cho số lớn hơn 1 bậc Số nhỏ/chia cho số lớn hơn 2 bậc
0
1
1
2
3
5
8
13 1.6250 0.6154 0.3810
21 1.6154 0.6190 0.3824
34 1.6190 0.6176 0.3818

55 1.6176 0.6182 0.3820
89 1.6182 0.6180 0.3819
144 1.6180 0.6181 0.3820
233 1.6181 0.6180 0.3820
377 1.6180 0.6180 0.3820
610 1.6180 0.6180 0.3820
987 1.6180 0.6180


Một dãy sóng 5­3 điển hình trong thị truờng tăng trường “bò húc”

Dưới đây phân tích một con sóng 5­3 điển hình của thị trường trong giai đọan tăng trưởng ­ “bò húc”. Cũng con sóng 5­3 này trong Thị trường suy thóai “gấu ngủ” sẽ được vẽ hòan tòan ngược lại.

Sóng chủ số 1. Đợt sóng đầu tiên này là có điểm xuất phát từ thị truờng con gấu (suy thóai), do đó sóng 1 ít khi được nhận biết ngay từ đầu. Lúc này thông tin cơ bản về các công ty niêm uớc vẫn đang là thông tin tiêu cực. Chiều hướng của thị trường trước khi sóng 1 xảy ra chủ yếu vẫn thị truờng suy thoái. Những nhà phân tích cơ bản vẫn đang tiếp tục điều chỉnh thu nhập kỳ vọng thấp xuống so với dự kiến. Khối lương giao dịch tăng chút ít theo chiều hướng giá tăng. Tuy vậy việc tăng này là không đáng kể. Do đó nhiều nhà phân tích kỹ thuật không nhận ra sự có mặt của đợt sóng số 1 này.

Sóng chủ số 2. Sóng chủ 2 sẽ điều chỉnh sóng 1, nhưng điểm thấp nhất của sóng 2 không bao giờ vượt qua điểm xuất phát đầu tiên của sóng 1. Tin tức dành cho thị trường vẫn chưa khả quan. Thị trường đi xuống ở cuối sóng 2 để thực hiện việc “kiểm tra” độ thấp của thị trường. Những người theo phái con gấu vẫn đang tin rằng thị trường con gấu vẫn đang ngự trị. Khối lượng giao dịch sẽ ít hơn đợt sóng
1. Giá sẽ được điều chỉnh giảm thuờng nằm trong khoảng 0.382 đến 0.618 của mức cao nhất của sóng 1.

Sóng chủ số 3. Thông thường đây là sóng lớn nhất và mạnh mẽ nhất của xu hướng lên giá. Ngay đầu sóng 3, thị trường vẫn còn nhận những thông tin tiêu cực vì vậy nhiều nhà kinh doanh không kịp chuẩn bị để mua vào. Khi sóng 3 đang ở lưng chừng, thị trường bắt đầu nhận những thông tin bản tích cực những nhà

phân tích bản bắt đầu điều chỉnh thu nhập kỳ vọng. Mặc những đợt điều chỉnh nho nhỏ trong lòng của sóng 3, giá của sóng 3 tăng lên với tốc độ khá nhanh. Điểm cao nhất của sóng 3 thường cao hơn điểm cao nhất của sóng 1 với tỷ lệ 1,618:1

Sóng chủ số 4. Đây thật sự là một con sóng điều chỉnh. Giá có khuynh hướng đi xuống đôi khi thể răng cưa kéo dài. Sóng 4 thường sẽ điều chỉnh sóng 3 với mức 0.382 – 0.618 của sóng 3. Khối lượng giao dịch của sóng 4 thấp hơn của sóng 3. Đây thời điểm để mua vào nếu như nhà kinh doanh nhận biết được tiềm năng tiếp diễn liền sau đó của con sóng 5. Tuy vậy việc nhận biết điểm dừng của sóng 4 là một trong những khó khăn của các nhà phân tích kỹ thuật trường phái sóng Elliot.

Sóng chủ số 5. Đây đợt sóng cuối cùng của 5 con sóng “chủ”. Thông tin tích cực tràn lan khắp thị trường ai cũng tin rằng thị trường đang trong thế húc. Khối lượng giao dịch của sóng 5 khá lớn , tuy vậy thông thường vẫn nhỏ hơn sóng 3.
Điều đáng nói những nhà kinh doanh “không chuyên nghiệp” thường mua vào ở những điểm gần cuối sóng 5. Vào cuối con sóng 5, thị trường nhanh chóng chuyển hướng.

Sóng điều chỉnh A. Sóng này bắt đầu cho đợt sóng điều chỉnh A,B,C. Trong thời gian diễn ra sóng A, thông tin bản vẫn đang rất lạc quan. Mặc giá xuống, nhưng phần đông các nhà kinh doanh vẫn cho rằng thị trường đang trong thế bò húc. Khối lượng giao dịch tăng trưởng khá đều đặn theo con sóng A.

Sóng điều chỉnh B. Giá tăng trở lại với mức cao hơn so với điểm cuối sóng A. Sóng B được xem điểm kéo dài của thị trường húc. Đối với những người theo trường phái phân tích kỹ thuật cổ điển, điểm B chính vai phải của đồ thị Đầu và Vai ngược. Khối lượng giao dịch của sóng B thường thấp hơn của sóng A. Vào lúc này, những thông tin bản của các công ty không những điểm tích cực mới, thế nhưng cũng chưa chuyển hẳn qua tiêu cực.

Sóng điều chỉnh C. Giá khuynh hương giảm nhanh hơn các đợt sóng trước. Khối luợng giao dịch tăng. Hầu như tất cả mọi nhà kinh doanh, đầu đều nhận thấy sự ngự trị của “gấu ngủ” trên thị trường, chậm nhất trong đợt sóng nhỏ thứ 3 của sóng C. Sóng C thường lớn như sóng A. Điểm thấp nhất của sóng C ít nhất bằng điểm thấp nhất của sóng A nhân với 1.618. Thay cho lời kết:
Tuy Lý thuyết sóng Elliott kết hợp với dãy số Fibonacci bị một số chỉ trích phê bình, vẫn được rất nhiều nhà nghiên cứu kinh doanh các sản phẩm tài chánh cổ sử dụng trong việc phân tích giá. ngày càng trở nên phổ biến sự chính xác đôi khi đến bất ngờ của nó. Trong hội thảo đầu tư tài chánh châu Á, ngày 26/7/2007 tại Thành Phố Hồ Chí Minh, ông Joe DiNapoli, một chuyên gia về kỹ thuật Fibonacci đã chứng minh rằng trong năm v ừa rồi, có hai con sóng của VNIndex đã theo đúng các con số Fibonacci. nhiên chúng ta thể tìm ra thêm nhiều chứng cớ xác thực của VNIndex cho “lý thuyết sóng Elliott kết hợp với Fibonacci”. Điều đó cũng giống như nhiều dụng cụ phân tích kỹ thuật khác: khá chính xác khi chứng minh quá khứ, nhưng chính xác “vừa phải” khi dự đoán tương lai. Do đó khi xử dụng thuyết trên cũng như bất cứ phương pháp/dụng cụ phân tích kỹ thuật nào khác, chúng ta phải hết sức thận trọng, sáng suốt và quan trọng hơn hết chuẩn bị chấp nhận một mức độ rủi ro nhất định.
Fibonacci trong phân tích kỹ thuật
( Bình chọn: 6 ­­ Thảo luận: 1 ­­ Số lần đọc: 1551)
Có một “tỷ lệ” rất đặc biệt được sử dụng để mô tả tính cân đối của vạn vật từ những khối cấu trúc nhỏ nhất của thiên nhiên như nguyên tử cho đến những thực thể có kích thước cực kỳ khổng lồ như thiên thạch. Không chỉ thiên nhiên phụ thuộc vào nó để duy trì sự cân bằng mà thị trường tài chính có vẻ như cũng vận động theo một quy luật tương tự. Trong phạm vi bài viết, chúng ta sẽ xem qua một vài công cụ phân tích kỹ thuật được phát triển dựa trên các nghiên cứu trên cái mà người ta gọi là “tỷ lệ vàng” này.

Các nhà toán học, khoa học, và tự nhiên học đã biết đến “tỷ lệ vàng” này trong nhiều năm. Nó được rút ra từ dãy Fibonacci, do nhà toán học người Ý, Leonardo Fibonacci (1175­1250) tìm ra. Trong dãy Fibonacci (1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144, 610, etc), mỗi số trong dãy tổng của hai số trước đó. Điều đặc biệt nhất trong dãy này bất kỳ một số nào cũng đạt giá trị xấp xỉ 1.618 lần số đứng trước và 0.618 lần số đứng sau (0.618 nghịch đảo của 1.618). Tỷ lệ này được biết đến với rất nhiều tên gọi: tỷ lệ vàng, tỷ lệ thần thánh, PHI … Vậy thì, tại sao tỷ lệ này lại quan trọng đến vậy? Vạn vật dường như có thuộc tính gắn kết với tỷ lệ 1.618, lẽ thế được coi một trong những nhân tố bản cấu thành nên các thực thể trong tự nhiên.
Nếu chia tổng số ong cái cho tổng số ong đực trong một tổ ong bất kỳ, bạn sẽ có giá trị là 1.618. Nếu lấy khoảng cách từ vai đến móng tay chia cho khoảng cách giữa cùi chỏ móng tay thì bạn cũng được giá trị 1.618. Tính xác thực của các ví dụ trên bạn thể từ từ kiểm chứng nhưng chúng ta hãy cùng xem “tỷ lệ vàng” có ứng dụng gì trong tài chính.
Khi sử dụng phân tích kỹ thuật, “tỷ lệ vàng” thường được diễn giải theo 3 giá trị phần trăm: 38.2%, 50%, 61.8%. Nhiều tỷ lệ khác thể được sử dụng khi cần thiết, như 23.6%, 161.8%, 423%... 4 phương pháp chính trong việc áp dụng dãy Fibonacci trong tài chính: Retracements, arcs, fans, time zones.
Fibonacci Arcs (FA) được thiết lập đầu tiên bằng cách vẽ đường thẳng kết nối 2 điểm mức giá cao nhất thấp nhất của giai đoạn phân tích. 3 đường cong sau đó được vẽ với tâm nằm trên điểm mức giá cao nhất khoảng cách bằng 38.2%, 50.0%, 61.8% độ dài đường thẳng thiết lập.

FA dùng để dự đoán mức hỗ trợ và kháng cự khi đồ thị giá tiếp cận với đường cong. Một kỹ thuật phổ biến theo dõi cả hai đường FA, FF (Fibonacci Fan) dự đoán mức hỗ trợ/kháng cự tại điểm giao giữa đồ thị giá đường FA/FF.

Lưu ý rằng đồ thị giá cắt đường FA tại điểm nào còn tùy thuộc vào kích cỡ của đồ thị, nói cách khác đường FA được vẽ lên đồ thị nên mối tương quan với kích cỡ cân đối của đồ thị trên màn hình vi tính hoặc trên giấy.
Đồ thị giá của Đồng Bảng Anh tả cách đường FA tìm ra các điểm hỗ trợ và kháng cự (điểm A, B, C)
Fibonacci Fan (FF) được vẽ bằng cách kết nối hai điểm giá cao nhất thấp nhất của giai đoạn phân tích. Sau đó một đường thẳng đứng “vô hình” sẽ được vẽ qua điểm giá cao nhất. Tiếp theo đó 3 đường chéo sẽ được vẽ từ điểm giá thấp nhất cắt đường thẳng đứng “vô hình” tại 3 mức 38.2%, 50.0%, 61.8%.
Đồ thị sau của Taxaco cho thấy các ngưỡng hỗ trợ/kháng cự trên đường FF



Bạn có thể thấy khi đồ thị giá gặp đường FF cao nhất (điểm A), đồ thị giá không thể vượt qua đường FF trong nhiều ngày. Khi giá vừa vượt qua đường FF, liền rớt nhanh chóng đến điểm đáy trên đường FF thứ 3 (điểm B và C) trước khi tìm được ngưỡng hỗ trợ. Cũng lưu ý rằng khi giá di chuyển qua điểm đáy (điểm C),
di chuyển một mạch tới điểm cao nhất (điểm D) trên đường FF thứ 1 cũng là điểm kháng cự, sau đó rơi xuống điểm giữa trên đường FF thứ hai (điểm E) trước khi đổi chiều đi lên.
Fibonacci Retracements (FR) được xác định trước tiên bằng cách vẽ đường thẳng nối kết giữa hai điểm giá cao nhất thấp nhất của đồ thị giá trong giai đoạn phân tích. Một loạt 9 đường nằm ngang sau đó được vẽ lên tại các mức Fibonacci 0.0%, 23.6%, 38.2%, 50%, 61.8%, 100%, 161.8%, 261.8%, 423.6% tương ứng với chiều cao tính từ điểm giá cao nhất đến thấp nhất (một số đường thể không được vẽ ra khi nằm ngoài quy phân tích của đồ thị)
Sau mỗi giai đoạn biến động giá chính (có thể lên hoặc xuống), giá thường xu hướng đảo ngược xu hướng (toàn bộ hoặc một phần). Khi giá đảo chiều, các ngưỡng hỗ trợ hoặc kháng cự mới thường nằm trên hoặc gần đường FR (xem đồ thị ­ ngưỡng hỗ trợ kháng cự xuất hiện tại đường Fibonacci 23.6% 38.2%)


Fibonacci Time Zones bao gồm một loạt các đường thẳng đứng. Sắp xếp theo trật tự của dãy Fibonacci 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, Cũng như các đường khác, diễn biến thay đổi của giá thường có mức hỗ trợ/kháng cự nằm gần hoặc trên các đường thẳng đứng này.


Các kết quả nghiên cứu về Fibonacci này không có ý định làm kim chỉ nam cho việc xác định thời gian xâm nhập hoặc thoát ra khỏi thị trường. Tuy nhiên, nó có thể hữu ích trong việc xác định vùng hỗ trợ kháng cự. Đa phần các nhà đầu tư sử dụng kết hợp cả 4 phương pháp Fibonacci này để có thể đưa ra các mức dự đoán chính xác hơn. Một nhà phân tích có thể chỉ sử dụng Fibonacci Arcs và các điểm giao tại vùng hỗ trợ hoặc kháng cự. Nhiều người khác kết hợp các nghiên cứu về Fibonacci với các dạng thức phân tích kỹ thuật khác như “lý thuyết sóng Elliot” để dự đoán mức độ đảo ngược xu hướng sau mỗi bước sóng khác nhau. Trong phạm vi bài viết, tôi chỉ xin dừng lại mức độ ứng dụng bản của dãy Fibonacci, hy vọng thể cung cấp cho các bạn vài thông tin hữu ích.
Phân tích kỹ thuật có hữu dụng tại Việt Nam?
Phân tích kỹ thuật (technical analysis) phương pháp phân tích dựa vào các mẫu hình đồ thị các chỉ số kỹ thuật trong quá khứ để xác định xu hướng giá, những điểm giá đảo chiều, và những “mốc giá tâm lý” quan trọng của thị trường, từ đó đưa ra những chiến lược giao dịch phù hợp.
Đây phương pháp phân tích rất được ưa thích trên các thị trường tài chính thế giới, trong vài năm trở lại đây đã trở thành một mối quan tâm của giới đầu tài chính ở Việt Nam.
Tại sao phân tích kỹ thuật có thể hiệu quả tại Việt Nam?
Tuy nhiên, nhiều nhà đầu tư tìm hiểu về phân tích kỹ thuật đã cho rằng công cụ này không hiệu quả tại Việt Nam lúc này thị trường còn quá mới, ít ai áp dụng. Các tín hiệu do công cụ phân tích kỹ thuật đưa ra sẽ không được tận dụng, vậy sẽ không tạo ra hiệu ứng giá “chạy” theo tín hiệu, kết quả không tạo ra các xu hướng (trend) giá, vốn là một điều căn bản để nhà đầu tư dựa vào phân tích kỹ thuật giao dịch kiếm lời.
Thật ra, việc còn ít người vận dụng phân tích kỹ thuật sẽ một điều thuận lợi cho những người hiểu biết sâu về công cụ này kiếm lợi nhuận vượt trội so với người không biết. Điều này liên quan đến nguyên nhân: các xu hướng giá vẫn tồn tại, và sẽ được phản ánh tốt bởi phân tích kỹ thuật cho không nhiều người áp dụng. Thị trường luôn tồn tại những trạng thái tâm gọi “neo”, “bảo thủ”, “mẫu hình chuẩn”. Các trạng thái tâm “neo” “bảo thủ”, nói đơn giản nhà đầu ít xu hướng thay đổi quan điểm của mình về thị trường, về từng loại cổ phiếu, về các mức giá họ cho “hợp lý” một cách nhanh chóng.
Như vậy, bất chấp nhà đầu biết về phân tích kỹ thuật hay không, họ có biết thế nào “đường xu hướng”, “mức chống đỡ”, “mức kháng cự” hay không, thì những xu hướng mức giá quan trọng đó vẫn đã tồn tại trong quyết định đầu tư của họ, và phân tích kỹ thuật phản ánh được những điều đó. Điều này giúp nhà phân tích kỹ thuật có lợi thế hơn.
Còn trạng thái tâm “mẫu hình chuẩn” trong nhiều trường hợp, nhà đầu luôn giữ trong mình những “quy tắc kinh điển trong đầu tư”, nghĩa là khi ở trong tình huống đặc biệt A, thì nên hành động kiểu B là tốt nhất. Như vậy, dù nhà đầu tư không tin rằng phân tích kỹ thuật đúng, trong rất nhiều trường hợp họ vẫn sẽ lặp lại hành vi “chuẩn” của mình trong quá khứ.
Tâm lý mẫu hình chuẩn này thường được hỗ trợ bởi tâm lý “tự tin thái quá”, tức những mình làm trong quá khứ hợp thì bây giờ cũng vậy, mình nhà đầu tư “trên trung bình” (một nghiên cứu tài chính hành vi chứng minh rằng đa số nhà đầu tư đều thích nghĩ mình là “nhà đầu tư trên trung bình”, hơn là nghĩ mình là “nhà đầu tư kém cỏi”).
Ví dụ, khi nhà đầu tư tin rằng đô la và chứng khoán thế giới sẽ giảm giá, họ mua vàng đó “điểm đến an toàn”, đó hành động “chuẩn” thường diễn ra trong quá khứ.
Nghĩa là vô tình, dù họ “căm ghét” phân tích kỹ thuật, không dùng phân tích kỹ thuật, thì quan điểm căn bản của phân tích kỹ thuật lại được củng cố bằng hành vi

đầu tư của các nhà đầu tư ấy!
thế nhà phân tích kỹ thuật cứ thế nhìn lại mẫu hình giao dịch của thị trường trong quá khứ (phản ánh qua diễn biến mẫu hình đồ thị giá chỉ số kỹ thuật) giao dịch cho hiện tại để kiếm lời.
Nhiều triển vọng, nhưng cần tránh lạm dụng
Từ thực tế phát triển các thị trường, chúng ta sẽ càng thấy hội để phân tích kỹ thuật phát triển rộng rãi Việt Nam trong thời gian tới khá lớn.
Nguyên nhân vì... đây phương pháp phân tích khá dễ học dễ dùng. Nhà đầu tư không cần phải mất nhiều năm học những chỉ số phân tích phức tạp, không cần học cách “đọc” các thông tin tài chính từ các báo cáo tài chính, không cần hiểu về lý thuyết danh mục đầu tư, không cần biết về chiết khấu dòng tiền... Những họ học các kiểu mẫu hình đồ thị trực quan, dễ nhớ, những chỉ số phần mềm tính sẵn, họ chỉ cần nhớ cách sử dụng khá đơn giản.
Khi có nhiều người dùng phân tích kỹ thuật sẽ tạo thành một quá trình tạm gọi là “tự mình khen mình”, nghĩa khi nhiều người biết phân tích kỹ thuật, khi mẫu hình đồ thị tạo ra một tín hiệu giá tăng, ai học phân tích kỹ thuật cũng biết được điều này, ai cũng đổ đi mua, cuối cùng... giá tăng thật. Thế là mọi người lại bảo nhau “phân tích kỹ thuật” đúng thật!
Đây là một thực tế của nhiều thị trường tài chính lớn trên thế giới khi chính phân tích kỹ thuật được xem nhân tố chính dẫn dắt giá chạy trong ngắn hạn (đặc biệt là thị trường ngoại hối, điều này được nhiều nghiên cứu thừa nhận). điều này là tốt hay xấu, người ta lại cũng đổ đi học phân tích kỹ thuật, trở thành một nhân tố ảnh hưởng thị trường. Thế là nhiều người biết phân tích kỹ thuật thì lại càng nhiều người hơn đi học phân tích kỹ thuật. Ngay cả những người không tin vào cũng sẽ đi học, “ai cũng dùng thì mình cũng nên biết ”.
Như vậy, nhìn về khía cạnh phát triển, xem ra phân tích kỹ thuật nhiều hội để “phát huy” Việt Nam, một phần do thật sự hữu ích, mặt khác, do dễ học. Nhưng, nếu lạm dụng phân tích kỹ thuật, cho rằng tốt hơn các kỹ thuật khác, thể giúp dự đoán trước được thị trường thì rất nguy hiểm.
Thật ra thị trường thường xuyên thay đổi các điều kiện về giao dịch, về kỹ thuật, về công cụ mới, những mẫu hình quá khứ sẽ bắt đầu sai lệch. Nếu nhà đầu tư không nhận ra điều này, họ sẽ dễ thất bại. Ngay bản thân các tài liệu về phân tích kỹ thuật mới hiện nay trên thế giới đang những điều chỉnh đáng kể so với các phương pháp truyền thống, sự xuất hiện của nhiều công cụ như option, futures, các kỹ thuật giao dịch mới của các quỹ đầu đang tạo ra các dạng nhiễu lực thị trường mới.

Thị trường Việt Nam đang thay đổi nhanh chóng, và vì vậy, chỉ nên nhìn nhận phân tích kỹ thuật như nhiều phương pháp phân tích khác, sẽ bổ trợ lẫn nhau, và nên hiểu rằng, phân tích kỹ thuật thể chỉ làm cho quyết định đầu trở nên dễ dàng hơn, không phải luôn luôn tốt hơn.
Phân tích thuật P.8 ­ Sử dụng đường hỗ trợ đường kháng cự trong phân tích Đường hỗ trợ và kháng cự là một trong những công cơ bản được các tay buôn chứng khoán sử dụng để phân tích và xác định vùng biến động của giá cổ phiếu trên thị trường. thể Việt Nam, khái niệm đường hỗ trợ, đường kháng cự còn rất lạ lẫm đối với nhiều nhà đầu song khái niệm này được nhắc tới sử dụng rất phổ biến trong phân tích thuật, thậm chí còn được coi kim chỉ nam, sách gối đầu giường của nhiều tay chơi cổ phiếu. Bài viết này nhằm cung cấp các kiến thức bản nhất về mức hỗ trợ, mức kháng cự cũng như cách xác định các mức giá khả năng xảy ra trong tương lai.

Một trong những tiên đề nổi tiếng, có tính kinh điển trong phân tích kĩ thuật đó là "giá cả của cổ phiếu chịu sự tác động mạnh mẽ của mức hỗ trợ mức kháng cự". Hỗ trợ là thuật ngữ dùng để chỉ các tác động giữ cho giá cổ phiếu luôn cao hơn một mức nào đó, còn kháng cự ngược lại, thuật ngữ được sử dụng để chỉ các tác động khiến cho giá cổ phiếu luôn thấp hơn một mức nhất định nào đó. Người ta đã nghiệm ra rằng lịch sử luôn lặp lại, nếu trong quá khứ các mức giá đã từng đóng vai trò giá kháng cự,thì chúng xu hướng sẽ lặp lại vai trò đó trong tương lai.
Việc biểu diễn được các đường hỗ trợ hay kháng cự trên đồ thị cổ phiếu sẽ giúp nhà đầu xác định được tầm quan trọng của chúng trong quá khứ cũng như tiên liệu được các biến động trong tương lai. Khi nhận thấy thị trường đang giao dịch với mức giá gần với hướng về các mức trên, ta thể đưa ra một số dự báo hợp lý về giá cả cổ phiếu trong thời gian tới, từ đó được các quyết định đầu cho riêng mình.

Vậy thế nào hỗ trợ, thế nào kháng cự hình thù của chúng trên các đồ thị cổ phiếu ra sao? Để giải quyết được câu hỏi này, hãy cùng quan sát một đồ thị có biểu diễn các đường kháng cự đường hỗ trợ tại các mức giá hết sức ràng và dễ nhận biết. Sử dụng các thông tin rút ra từ bảng này ta thể biết được liệu các mức kháng cự hay hỗ trợ này lặp lại không khi giá cổ phiếu xu hướng chạm tới các mức giá đó. Tuy nhiên, trước khi đi sâu khám phá những bí ẩn đằng sau các biểu đồ, hãy cùng tìm hiểu một số thuật ngữ và các nguyên nhân dẫn tới sự hình thành của các đường này.


Bất ai thường xuyên theo dõi các kênh thông tin tài chính, đọc các tạp chí đầu tư như Financial Times, vào các website chuyên ngành đầu chứng khoán của các thị trường lớn đều thể nghe được đọc được các lời nhận xét của các chuyên gia tài chính như, đại loại như là "Tôi cho rằng mức hỗ trợ của Dow là 7300" hay "Dow chắc chắn sẽ có mức kháng cự là 8100" Vậy thì bản chất tài chính của kháng cự hay hỗ trợ gì, tại sao người ta lại nhắc đến nhiều như vậy.
Robert Edwards John Magee trong tác phẩm kinh điển của họ tựa đề "phân tích thuật xu thế biến động cổ phiếu" (Technical analysis of stock trend) đã định nghĩa như sau:
Hỗ trợ việc mua, thể trên thực tế hoặc tiềm năng, một khối lượng lớn cổ phiếu trong một giai đoạn nhất định nhằm ngăn chặn không cho giá của chúng giảm thêm nữa. Kháng cự, ngược với hỗ trợ, việc bán một lượng lớn cổ phiếu nhằm đáp ứng các lệnh mua, khiến cho mức giá không tăng thêm nữa. Xét về quan hệ cung cầu thì hỗ trợ là mức giá mà tại đó cầu lớn hơn cung, còn kháng cự là mức giá tại đó cầu nhỏ hơn cung.

Hãy cùng quan sát bảng 1 để thấy hơn. Đây biểu đồ chứng khoán của công ty Rubbermaid từ tháng 6 năm 1997 đến tháng 9 năm 1998. Đồ thị thể hiện ba lần giá cổ phiếu lên cao hơn mức 27.5 điểm ( tại A ,B ,C), sau đó lại đảo chiều và giảm giá. Kế đó, sau khi vượt qua mức 27.5 điểm vào tháng 1 năm 1998 giá cổ phiếu lại tụt xuống (điểm D ,E ,F) trước khi tăng lên tới mức 35 điểm. Một đường thẳng được kẻ sao cho càng gần với cả sáu điểm này càng tốt. Trong bảng này, ta thấy mức giá đóng vai trò kháng cự tại điểm A­C, sau đó đảo chiều đóng vai trò hỗ trợ tại điểm D­E.

Để giải thích được hành vi của thị trường, chúng ta cần phân tích đồ thị này hơn chút nữa. Sau khi sụt giảm mạnh từ mức 30 điểm vào giữa tháng 7 năm 1997, giá cổ phiếu sau đó đã tăng lên mức 27.5 (điểm A) vào tháng 8, lại sụt giảm, rồi tăng lên mức 27.25 điểm vào tháng 8, sau đó lại sụt giảm. Chu này lại tiếp diễn một lần nữa vào tháng 1 năm 1998, sau đó lại được đẩy từ mức 27.5 điểm lên mức
29.5 điểm vào tháng 2.

Giả định rằng trước khi diễn ra sự sụt giá vào giữa tháng 7 năm 1997, các nhà đầu tư mua cổ phiếu mức giá dưới 30 điểm đã kiếm được một khoản lợi nhuận sau

khi bán lại các cổ phiếu này cho các nhà đầu tư mới ở mức giá 30 điểm. Nhưng ngay sau đó, nhiều người trong số các cổ đông mới này đã đau khổ khi phải chứng kiến tiền đầu của mình bỗng nhiên giảm đi mất 15% chỉ sau một đêm ngắn ngủi (giá giảm xuống mức 25.5 điểm) và đương nhiên ai cũng mong ngóng ngày giá tăng để giảm bớt khoản lỗ.

Mặt khác, các nhà đầu tư đã lỡ cơ hội kiếm lời từ việc tăng giá ngay trước đó (từ thấp hơn 30 lên 30 điểm) thì lại coi đây là một cơ hội tốt để mua vào, đơn giản vì mới chỉ hai ngày trước đó, mức giá còn ngất ngưởng 30 điểm. Chính tâm này nên giá cổ phiếu đã tăng lên mức 27.5 (điểm A), và các cổ đông mua cổ phiếu ở mức giá 30 cũng nhẹ nhõm hơn một chút mức lỗ của họ chỉ còn 2.5 điểm thay
4.5 điểm như trước đây. Nhiều người chấp nhận mức lỗ này, không muốn kéo dài tình trạng lo lắng cho túi tiền của mình, họ quyết định bán cổ phiếu ra, khiến cho giá sụt xuống. Chu trình này lặp lại (điểm B C) cho đến khi một bộ phận lớn các nhà đầu tư không chấp nhận mức lỗ 2.5 điểm và vẫn quyết định nắm giữ cổ phiếu, khiến cho mức giá tiếp tục tăng và vượt qua mức 27.5 vào tháng 2 năm 1998, tiếp tục tăng lên mức 29.5 điểm.
Tại mức giá này, nhiều nhà đầu tư cảm thấy hài lòng với quyết định nắm giữ cổ phiếu của mình, chấp nhận mức lỗ 0.5 điểm, lo sợ mức giá duy trì yếu trong thời gian dài, họ quyết định liên lạc với người môi giới của mình để bán cổ phiếu, khiến cho giá lại giảm xuống mức 27.5 (điểm D). Hiện tượng này tiếp tục xảy ra thêm hai lần nữa (điểm E, F) cho đến khi những nhà đầu chấp nhận chịu mức lỗ nhỏ đã ra khỏi thị trường, lúc này giá cả lại được đẩy lên mức 30 điểm vào tháng 5 năm 1998.

Quá trình trên không chỉ xảy ra tại mức giá này xảy ra ngay tại mỗi mức giá cổ phiếu được giao dịch. Mặc dù điều này có vẻ quá đơn giản, nhưng đó là một trong những kiểu ra quyết định của các nhà đầu giúp hình thành nên mức hỗ trợ và mức kháng cự. Một vài nhân tố quan trọng hơn cả sẽ có ảnh hưởng lớn đến biểu hiện của giá cả, tuy nhiên nếu không tính tới các nhân tố này, các mức hỗ trợ và kháng cự này có thể có những tác động rõ rệt đến hình dạng của bảng biểu chứng khoán thường ngày. Nhưng quan trọng hơn cả, bằng cách kết hợp kiến thức về mức hỗ trợ, mức kháng cự cùng với các công cụ phân tích bản phân tích kĩ thuật khác, chúng ta thể những sự so sánh, dự đoán xu hướng biến động của giá cả, chớp thời cơ làm giàu, hơn là bị động gánh chịu và sửng sốt trước những biến đổi bất ngờ của nó.



Bảng thứ hai lại một dụ khác, thể hiện biến động theo từng ngày của cổ phiếu OSSi (Outback Steakhouse). Kể từ đầu năm 1998 tới giữa tháng 2, giá cổ phiếu tăng từ 28.5 lên 34.5 điểm (tại A). Hãy chú ý tới phần đường biểu diễn nằm sát nhau ngay trên đường hỗ trợ được kẻ tại mức 34.5, những biến động của giá cả trong vài tháng tiếp đó khi nó tăng giảm chạm mức hỗ trợ 4 lần tại B, C, D, E. Từ điểm E cho đến cuối tháng 7, giá tăng lên tới tận mức đỉnh điểm 41(tại F), ngay sau đó lại tụt dốc rất nhanh xuyên qua đường hỗ trợ, xuống mức 32.5 vào đầu tháng 8.

F điểm cao nhất trong cả thời phân tích, ta sẽ kẻ một đường thẳng từ điểm G đến điểm E, kéo thẳng đường này sang phía phải (gọi đường xu thế). Hãy chú ý rằng điểm dừng H trước ngày giá giảm từ 36 xuống 32.5 điển (I) nằm ngay trên đường này. Sự sụt giảm tương đối lớn ngay ngày sau đó cho thấy đường xu thế này đóng vai trò như một đường hỗ trợ, một khi vượt qua được "rào cản" này, giá sẽ rớt tự do. Đồng thời điều này cũng nghĩa đường hỗ trợ kháng cự không nhất thiết phải đường ngang, thể một đường xiên. Trên thực tế, cũng có thể coi chính các đường xu thế này như đường hỗ trợ hay kháng cự.

Quay lại với các điểm nằm trên đường hỗ trợ (A, B, C, D, E). Vì mức giá giảm xuống dưới 34.5 nên giá đã phá vỡ đường hỗ trợ đường xu thế. Trong tháng 8 mức giá chủ yếu giao động nhẹ quanh mức 34.5, lúc này đường xu thế không còn đóng vai trò như một đường hỗ trợ nữa, đã đảo chiều đóng vai trò như một đường kháng cự cho đến khi giá giảm xuống mức thấp hơn, đến tháng 9, cổ phiếu này được giao dịch ở mức 26.

Mức độ quan trọng đáng tin cậy trong việc dự đoán tương lai của đường hỗ trợ hay kháng cự trong phân tích thuật liên quan trực tiếp đến lần giá chạm tới các đường này chuyển động ngược trở lại. Trong đồ thị số 4, ít nhất 7 lần giá đạt tới mức kháng cự/hỗ trợ sau đó đảo chiều. Con số này chứng tỏ rằng các đường này rất có ý nghĩa và đáng tin cậy, có thể dùng để dự đoán các biến động của giá trong tương lai. Nó có đáng tin 100% không? Tất nhiên là không, chẳng phương pháp phân tích nào lại đáng tin 100% bởi thị trường còn chịu sự

tác động của rất nhiều yếu tố, tuy nhiên theo như đồ thị này thì khả năng giá sẽ đảo chiều là rất lớn.

Theo đồ thị trên, khi mức giá không giữ xu thế tăng nữa, chúng ta sẽ kẻ một đường xu thế mới để thể hiện hướng biến động mới của giá cả. Một đường thẳng nối từ F, kéo dài qua J đường xu thế mới. Một đường thẳng khác nối từ H, song song với đường xu thế trên vẻ "bao trọn" được biên giao động của giá trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 9, đây chính môt hình hỗ trợ­kháng cự đường xiên điển hình.

Nhìn chung, hỗ trợ kháng cự không phải công cụ dự đoán chính xác 100% sự biến động của giá cả trong tương lai, thay vào đó chúng công cụ dùng để cảnh báo các nhà đầu tư về một số điểm cần xem xét thẩm tra kĩ càng. Bằng cách sử dụng đường hỗ trợ kháng cự kèm với các chỉ số khác, chúng ta thể biết được các tác động của chúng (nếu có) đối với giá cổ phiếu, với độ chính xác tuỳ theo số lần giá cả chạm mức kháng cự hay hỗ trợ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét